Thuyết âm dương là gì?
Ngay từ 3000 năm trước, con người đã quan sát sự biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng. Họ nhận thấy, mỗi sự vật đều tồn tại mâu thuẫn nhưng lại thống nhất với nhau, phát triển và tiêu vong, biến hóa để phát triển được gọi là học thuyết âm dương. Trong y học phương Đông, học thuyết âm dương bao quát hệ thống lý luận cổ từ phương pháp chữa bệnh cho đến việc dùng thuốc.
Theo các nhà triết học, thuyết âm dương được hình thành từ sớm và còn được viết thành sách “Hoàng đế nội kinh” ở thời chiến Quốc – Tần Hán. Ngay từ thời kỳ đầu học thuyết này đã được kết hợp với học thuyết âm dương và hình thành nên thuyết âm dương trong y học.
Thuyết âm dương là cốt lõi của triết học phương Đông
Âm dương luôn được xem xét trong một chỉnh thể thống nhất, luôn tồn tại hai mặt đối lập và có sự liên hệ với nhau. Ví dụ, trời và đất là hai mặt đối lập, trời đại diện cho yếu tố dương ở trên, đất là đại diện cho yếu tố âm ở dưới, nếu không có trời thì sẽ không có đất và ngược lại.
Để phân biệt thuộc tính âm dương các nhà triết học đã đưa ra các yếu tố sau:
- Dương: Ở trên, bên ngoài, sáng, nhẹ, động, hưng phấn, ôn nhiệt…
- Âm: Bên dưới, bên trong, tối, nặng, ức chế, hàn lương…
Biểu tượng của thuyết âm dương
Thuyết âm dương được biểu hiện thông qua một hình tròn có hai hình cong đối xứng. Hai hình này ôm lấy nhau và được chia thành 2 màu trắng và đen, một phần âm và một phần dương.
Hình ảnh biểu trưng cho thuyết âm dương
Trong nửa màu trắng của vòng tròn này còn có một chấm đen, nửa màu đen lại có một chấm trắng. Điều này cho thấy, trong âm có dương và trong dương có âm. Vòng tròn âm dương là đại diện cho sự phát triển, vận động của vạn vật trong vũ trụ nhưng đều chỉ mang tính tương đối. Do vậy, không có gì là dương tuyệt đối, cũng không có gì là âm tuyệt đối.
Từ vòng tròn âm dương nhìn rộng ra, con người cũng có thể nhận thấy nhiều điều thú vị và không có gì là tuyệt đối. Chẳng hạn, nam giới đại diện cho phần dương bởi sự mạnh mẽ, quyết đoán còn nữ giới lại đại diện cho phần âm tĩnh lặng, nhẹ nhàng. Tuy nhiên, không phải lúc nào người nam mang yếu tố dương cũng mạnh mẽ và người nữ đại diện cho phần âm cũng yếu đuối và mỏng manh.
Các quy luật cơ bản của thuyết âm dương
Học thuyết âm dương được chia thành các quy luật cơ bản tương tự như các cặp phạm trù của triết học. Chúng thể hiện chính quy luật vận động và phát triển có trong mỗi sự vật, đây là yếu tố cốt lõi giúp vũ trụ phát triển.
Quy luật âm dương đối lập
Quy luật này cho rằng, hai mặt của âm dương luôn tồn tại sự mâu thuẫn và ức chế lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chúng hoàn toàn đối lập nhau về mặt bản chất, có yếu tố này thì sẽ không có yếu tố kia.
Ví dụ: Sự đối lập giữa ngày và đêm, giữa tối và sáng, giữa nước và lửa…
Quy luật âm dương hỗ căn
Hiểu một cách đơn giản, quy luật âm dương hỗ căn chính là sự nương tựa lẫn nhau để cùng tồn tại. Hai mặt âm – dương đều mang đến tác động tích cực cho sự vật, hiện tượng và không thể phát triển nếu như tồn tại một cách đơn độc.
Ví dụ: Nếu không có số âm thì sẽ không có số dương, nếu không có đồng hóa sẽ không có dị hóa,…
Hai mặt âm dương luôn có sự hỗ trợ lẫn nhau
Quy luật âm dương tiêu trưởng
Tiêu là tiêu vong, trưởng là sự sinh trưởng và phát triển. Như vậy, quy luật tiêu trưởng của học thuyết âm dương phản ánh sự phát triển và tiêu vong, nó nói lên mối quan hệ chuyển hóa giữa hai mặt của âm dương.
Để hiểu hơn về quy luật này, các nhà triết học đã đưa ra ví dụ về sự thay đổi của khí hậu 4 mùa trong năm.
Nhiệt độ của 4 mùa luôn thay đổi từ lạnh sang nóng rồi lại từ nóng sang lạnh, khi đó:
- Nhiệt độ thay đổi từ lạnh sang nóng được gọi là “âm tiêu dương trưởng”.
- Nhiệt độ thay đổi từ nóng sang lạnh gọi là “dương tiêu âm trưởng”.
Cũng theo quy luật này, sự vận động và tiêu vong của hai mặt âm dương chỉ mang tính chất giai đoạn. Cho đến một giai đoạn nào đó, hai mặt này sẽ chuyển hóa sang nhau.
Quy luật âm dương bình hành
Hai mặt âm – dương tuy có sự đối lập và vận động không ngừng nhưng luôn lặp lại và trở về thế cân bằng. Triết học gọi đó là thế quân bình giữa hai mặt. Khi hai mặt âm – dương mất thăng bằng sẽ phản ánh sự mâu thuẫn thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau.
Trong ứng dụng thực tiễn các quy luật trên, người ta còn phát hiện ra các cặp phạm trù sau:
1. Hai mặt âm dương có tính tương đối và tuyệt đối
Sự đối lập của âm dương mang tính chất tuyệt đối, tuy nhiên trong một điều kiện cụ thể nào đó chúng lại có tính tương đối. Ví dụ như hàn là yếu tố tâm, đối lập với nhiệt là yếu tố dương, thế nhưng lương (mát) lại thuộc âm và đối lập với ôn (ấm) thuộc yếu tố dương.
Sự đối lập của âm dương đôi khi chỉ mang tính tương đối
Một ví dụ khác trên thực tiễn lâm sàng, sốt là đại diện cho nhiệt – thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý sẽ dùng thuốc hàn để chữa trị, còn sốt nhẹ thuộc biểu thì dùng thuốc mát.
2. Trong âm chứa dương và trong dương chứa âm
Âm và dương cùng tồn tại và nương tựa lẫn nhau. Đôi khi, hai mặt này lại xen kẽ vào nhau và cùng phát triển. Ví dụ như sự phân chia thời gian trong ngày (24 giờ), khi đó sự đan xen giữa hai yếu tố âm – dương được thể hiện như sau:
- Ban ngày thuộc dương, thời gian từ 6-12 giờ trưa là phần dương của dương; Từ 12-18 giờ là phần âm của dương.
- Ban đêm thuộc âm, từ 18-24 giờ là phần âm của âm; Từ 0-6 giờ là phần dương của âm.
Trong khám chữa bệnh, khi dùng thuốc để hạ sốt cho ra mồ hôi cần chú ý không cho mồ hôi ra quá nhiều vì có thể gây mất nước và chất điện giải. Nếu tình trạng này xảy ra, có thể nhận thấy rõ các triệu chứng như như hư thực, hàn nhiệt…
3. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng
Thông thường, bản chất và hiện tượng phải luôn phù hợp với nhau. Nhưng đôi lúc, bản chất lại không phù hợp với hiện tượng – “thật giả”. Vì vậy, trong khám chữa bệnh cần tìm hiểu và xác định rõ bản chất thì mới có thể chỉ định đúng thuốc, nhanh chóng loại bỏ các nguyên nhân của bệnh.